18/06/2025 06:00
Vụ “Giấy hợp tác làm ăn hay hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất?” tiếp tục là tâm điểm chú ý khi nguyên đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm huỷ cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm của hai cấp toà tỉnh Đắk Lắk.
Tranh chấp đất đai phức tạp
Liên quan đến vụ việc này, ông Đinh Văn Hoành cho biết đã gửi đơn đến Chánh án Toà án nhân dân Tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm đối với Bản án sơ thẩm số 03/2025/DS-ST của Toà án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk và Bản án phúc thẩm số 213/2025/DS-PT của Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.
Ông Hoành là nguyên đơn trong vụ tranh chấp hợp đồng giao khoán, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (QSDĐ) với bị đơn là ông T (cùng ngụ tại TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk).

Ông Đinh Văn Hoành đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
Theo ông Hoành, bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm lần 2 và trước đó là Quyết định giám đốc thẩm số 60/2022/DS-GĐT của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã căn cứ vào tiểu mục 2.3, mục 2 phần II Nghị Quyết số 02/2004 ngày 10-8-2004 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao để công nhận việc chuyển nhượng QSDĐ giữa ông Hoành và vợ chồng ông V.
Tuy nhiên, ông Hoành cho rằng điều kiện đầu tiên để áp dụng tiểu mục 2.3 là giao kết giữa hai bên phải là hợp đồng chuyển nhượng. Trong trường hợp này, giấy cam kết hợp tác làm cao su lập ngày 27-5-1994 giữa ông Hoành và ông T về hình thức và nội dung không có bất cứ chữ nào ghi là hợp đồng hoặc chuyển nhượng đất.
Ngược lại, giấy cam kết lại có nội dung rất rõ ràng là hợp tác làm ăn trồng cây cao su. Việc cho rằng đây là hợp đồng chuyển nhượng chỉ là suy diễn.
Cạnh đó, cùng một tờ giấy cam kết hợp tác làm cao su nhưng toà cấp sơ thẩm (lần 2) vừa chấp nhận yêu cầu tuyên vô hiệu giấy này lại vừa chấp nhận yêu cầu công nhận giấy này.
Sai sót trong quá trình xét xử
Ông Hoành chỉ ra rằng toà án cấp sơ thẩm có sai phạm trong việc áp dụng văn bản pháp luật để giải quyết vụ án. Cụ thể, toà án cấp sơ thẩm (lần 2) áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 để làm căn cứ tuyên giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cao su vô hiệu là sai quy định pháp luật.
Vì sự kiện diễn ra và phát sinh năm 1994 nên phải áp dụng văn bản pháp luật tại thời điểm xác lập sự kiện là Pháp lệnh về hợp đồng dân sự năm 1991 của Hội đồng nhà nước.
Ngoài ra, mảnh đất tranh chấp là tài sản chung của vợ chồng ông Hoành. Thế nhưng, toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm (lần 2) không đưa vợ ông Hoành vào tham gia tố tụng là trái quy định.
Cuối cùng, ông Hoành đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng huỷ bản án sơ thẩm và huỷ bản án phúc thẩm của 2 cấp toà tỉnh Đắk Lắk.
Lịch sử vụ việc
Như đã phản ánh, năm 1994, ông Đinh Văn Hoành ký hợp đồng liên kết với công ty cao su tỉnh Đắk Lắk để trồng cây cao su… Ngày 27-5-1994, ông Hoành và ông T ký giấy cam kết hợp tác kinh tế làm cây cao su.
Sau đó, ông T không trả đất nên ông Hoành khởi kiện yêu cầu ông T có nghĩa vụ thanh lý hợp đồng hợp tác làm cao su, đồng thời trả lại đất cho ông Hoành.
Xử sơ thẩm tháng 1-2022, Toà án nhân dân huyện Cư M’gar chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Hoành, buộc vợ chồng ông V trả lại một phần diện tích đất (hơn 3 ha) cho ông Hoành.
Vợ chồng ông V kháng cáo. Xử phúc thẩm tháng 5-2022, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bác kháng cáo của vợ chồng ông V.
Sau đó, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị huỷ cả 2 bản án và Toà án nhân dân Cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận kháng nghị này.
Xử sơ thẩm lần 2 vào tháng 1-2025, Toà án nhân dân huyện Cư M’gar tuyên ngược lại với bản án sơ thẩm lần đầu, không chấp nhận đơn khởi kiện của ông Hoành.
Ông Hoành kháng cáo. Xử phúc thẩm lần 2 vào tháng 5-2025, Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk không chấp nhận kháng cáo của ông Hoành, giữ nguyên bản án sơ thẩm.