Nâng cao chất lượng – Taichinhnhadat.com https://taichinhnhadat.com Trang thông tin tài chính - nhà đất Việt Nam Thu, 11 Sep 2025 11:14:35 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/taichinhnhadat/2025/08/taichinhnhadat.svg Nâng cao chất lượng – Taichinhnhadat.com https://taichinhnhadat.com 32 32 Việt Nam chính thức sản xuất sợi Kataifi cho xuất khẩu thủy sản https://taichinhnhadat.com/viet-nam-chinh-thuc-san-xuat-soi-kataifi-cho-xuat-khau-thuy-san/ Thu, 11 Sep 2025 11:14:32 +0000 https://taichinhnhadat.com/viet-nam-chinh-thuc-san-xuat-soi-kataifi-cho-xuat-khau-thuy-san/

Ngành thủy sản Việt Nam đang ngày càng khẳng định vị thế trên thị trường quốc tế với những bước tiến đáng kể trong việc áp dụng công nghệ và đổi mới sản phẩm. Mới đây, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP) đã thông báo sợi Kataifi, một nguyên liệu quen thuộc trong chế biến tôm, cá xuất khẩu, đã chính thức được sản xuất và phân phối tại Việt Nam.

Sợi Kataifi, hay còn gọi là sợi Fillo, là bột mì được kéo thành sợi cực mảnh, có kích thước bằng khoảng 1/3 sợi bún Việt. Đặc biệt, sau khi chiên, sợi sẽ giòn thơm, không hút dầu và giữ hình dáng bắt mắt, cùng khả năng giữ độ ẩm bên trong, giúp sản phẩm đạt tính thẩm mỹ và chất lượng ổn định khi sản xuất hàng loạt.

Với cấu trúc mỏng dẹt, sợi Kataifi tạo ưu thế vượt trội trong chế biến tôm, cá xuất khẩu tại các thị trường khó tính như Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Âu. Trước đây, các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam phải nhập khẩu kataifi, dẫn đến chi phí cao và phụ thuộc vào nguồn cung từ nước ngoài. Giờ đây, với khả năng chủ động sản xuất, các nhà máy chế biến thủy sản có thể kiểm soát tốt hơn giá thành, tiến độ giao hàng và hỗ trợ kỹ thuật, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), trong 6 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 5,2 tỷ USD, tăng gần 19% so với cùng kỳ năm trước. Các sản phẩm chế biến sâu, bao gồm những sản phẩm sử dụng sợi kataifi, đang đáp ứng xu hướng tiêu dùng thực phẩm tiện lợi, lành mạnh và thẩm mỹ tại các thị trường lớn.

Việc sản xuất Kataifi trong nước không chỉ giúp giảm chi phí mà còn củng cố vị thế của Việt Nam trên bản đồ xuất khẩu thủy sản toàn cầu. Sợi kataifi “made in Vietnam” là minh chứng cho tiềm năng đổi mới và khả năng thích ứng của ngành chế biến thực phẩm. Với sự hỗ trợ từ các chính sách khuyến khích chế biến sâu và nỗ lực của các doanh nghiệp, kataifi hứa hẹn sẽ tiếp tục là “vũ khí” giúp ngành thủy sản Việt Nam nâng tầm thương hiệu, mở rộng thị trường và khẳng định vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu.

Bên cạnh những lợi ích kinh tế, việc sản xuất sợi Kataifi tại Việt Nam còn mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước phát triển và sáng tạo các sản phẩm mới, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Với những ưu thế vượt trội của sợi Kataifi, ngành thủy sản Việt Nam có thể kỳ vọng vào một tương lai phát triển mạnh mẽ và bền vững.

Xu hướng tiêu dùng thực phẩm hiện nay đang chuyển dịch sang các sản phẩm tiện lợi, lành mạnh và có tính thẩm mỹ cao. Việc sản xuất sợi Kataifi tại Việt Nam sẽ giúp các doanh nghiệp chế biến thủy sản đáp ứng được xu hướng này, đồng thời tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

]]>
Nâng cao thu nhập nhờ phát triển sản phẩm măng đặc sản ở Lào Cai https://taichinhnhadat.com/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-san-pham-mang-dac-san-o-lao-cai/ Mon, 04 Aug 2025 07:13:39 +0000 https://taichinhnhadat.com/nang-cao-thu-nhap-nho-phat-trien-san-pham-mang-dac-san-o-lao-cai/

Ở tỉnh Lào Cai, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số đã biến tiềm năng núi rừng thành hàng hóa, áp dụng khoa học kỹ thuật vào xây dựng thương hiệu sản phẩm, góp phần phát triển kinh tế xanh, bền vững và tạo việc làm cho lao động tại địa phương.

Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.
Từ những rừng măng bạt ngàn, những ngườ phụ nữ vùng cao đang nỗ lực vươn lên, đón nhận những cơ hội phát triển mới.

Tại Lào Cai, đồng bào dân tộc thiểu số các xã Văn Bàn, Chiềng Ken, Minh Lương, Nậm Chày, Nậm Xé đã gắn bó mật thiết với những rừng măng. Măng không chỉ giúp họ nuôi sống gia đình mà còn gìn giữ một phần văn hóa bản địa. Tuy nhiên, cuộc sống gắn liền với măng cũng đồng nghĩa với sự bấp bênh: sản lượng không ổn định, giá cả bị thao túng bởi thương lái và thiếu cơ hội vươn ra thị trường lớn.

Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết
Hợp tác xã Dần Thàng tạo việc làm ổn định cho khoảng 15–20 người dân và thu nhập cho hàng trăm hộ liên kết

Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế hàng hóa, nhiều phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương đã tham gia vào các dự án phát triển ngành măng, đưa sản phẩm từng bước chinh phục thị trường. Chị Triệu Thị Lai, người dân tộc Dao ở xã Nậm Xé, tỉnh Lào Cai, là một minh chứng sinh động cho hành trình thay đổi đó. Suốt nhiều năm, cuộc sống của chị gắn với những nhịp thở nơi rừng măng. Với 3-4 hecta rừng, gia đình chị dựa vào những mùa thu hoạch măng để mang lại phần lớn thu nhập hằng năm.

Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn
Được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, măng của hợp tác xã Nậm Xé có năng suất cao hơn và chất lượng tốt hơn

Tuy nhiên, mọi thứ bắt đầu thay đổi từ năm 2020, khi chị tham gia Dự án Thúc đẩy Bình đẳng Giới thông qua Nâng cao hiệu quả kinh tế sản xuất Nông nghiệp và Phát triển du lịch. Thông qua dự án, chị được tiếp cận với kỹ thuật canh tác tiên tiến, cải tạo đất, giúp tối ưu hóa việc trồng măng, tăng năng suất và chất lượng măng. Đặc biệt, chị đã tìm được đầu ra mới ngoài địa phương. Việc bán măng ra các tỉnh lân cận đã giúp giá măng tăng đáng kể, từ 25.000 đồng/kg lên 35.000 đồng/kg măng đã bóc vỏ. Nhờ đó, thu nhập từ măng của gia đình chị tăng từ 20 triệu đồng một vụ lên 30 triệu đồng một vụ cho diện tích trồng 3 hecta.

Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng
Một công đoạn chế biến măng của bà con Hợp tác xã Măng Dần Thàng

Năm 2024, chị Triệu Thị Lai thực hiện mục tiêu dài hơi hơn, từ một người nông dân trồng măng, chị quyết tâm gây dựng một mô hình kinh tế tập thể quy mô nhỏ, do chính những người phụ nữ dân tộc thiểu số làm chủ. Nhận được sự đồng hành của chính quyền địa phương, của các cấp Hội phụ nữ, Công ty Tư vấn giải pháp Nông nghiệp và Du lịch CRED, vợ chồng chị Lai cùng 9 hộ gia đình khác trong xã đã thành lập Hợp tác xã Măng Nậm Xé.

Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.
Phát triển kinh tế hàng hóa từ rừng núi: Hướng đi bền vững cho phụ nữ dân tộc thiểu số- Ảnh 3.

Thông qua hợp tác xã, các hộ dân có cơ hội được đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật canh tác, bóc vỏ và thu hoạch măng, đồng thời ký kết hợp đồng lâu dài với một công ty thu mua. Đây là những bước tiến quan trọng giúp các thành viên trong hợp tác xã, từng bước thoát khỏi sự lệ thuộc vào thương lái.

Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.
Người phụ nữ dân tộc Dao gắn bó mật thiết với những rừng măng.

Sự thành công và chuyển biến tích cực trong gia đình chị Lai và các hộ lân cận đã tạo động lực mạnh mẽ cho những người phụ nữ khác ở các xã lân cận, thúc đẩy họ chủ động thành lập các hợp tác xã riêng, nắm bắt cơ hội từ giá trị đang ngày càng tăng lên của ngành măng.

Tại xã Nậm Chày, Hợp tác xã Măng Dần Thàng do chị Hà Thị Thu Hương làm Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc cũng đang tạo dựng cơ hội kinh doanh và việc làm ổn định, bền vững, giúp bà con vùng núi khó khăn vươn lên thoát nghèo. Hợp tác xã Măng Dần Thàng được thành lập vào tháng 8/2024 với tổng số 15 thành viên, 100% đều là chị em phụ nữ dân tộc thiểu số tại địa phương.

Hợp tác xã hiện nay đang liên kết sản xuất măng với 4 tổ hợp tác, bao gồm 161 hộ dân tại xã Dần Thàng. Năm 2024, Hợp tác xã đã ký kết thỏa thuận hợp tác 10 năm với Công ty Kim Bôi về việc thu mua sản phẩm măng đạt chất lượng do Hợp tác xã sản xuất.

Được tham gia các chương trình tập huấn, chuyển giao công nghệ chế biến và bảo quản măng để hình thành chuỗi chế biến khép kín, tiêu thụ ổn định, hợp tác xã Dần Thàng đã đầu tư 400 triệu đồng xây dựng nhà máy 160m², có thể xử lý tới 1.000 tấn măng tươi mỗi năm.

Chặng đường hình thành, phát triển hợp tác xã của chị Triệu Thị Lai, chị Hà Thị Thu Hương cho thấy sự cần thiết của sự liên kết, hợp tác đồng hành giữa nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp và nhà nước, trong quá trình đưa sản phẩm của núi rừng tiếp cận với thị trường trong nước.

Tạo việc làm và mở ra cơ hội phát triển kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số là một trong những mục tiêu quan trọng của các dự án phát triển ngành măng. Không chỉ hướng tới lợi nhuận, mô hình hợp tác xã măng còn mang giá trị xã hội lớn.

Từ chỗ lao động đơn lẻ, manh mún, người dân, nhất là phụ nữ dân tộc thiểu số được tổ chức sản xuất bài bản, có thu nhập ổn định, có cơ hội học hỏi và thể hiện vai trò lãnh đạo.

Nhờ những thay đổi tích cực trong ngành măng cùng với quyết tâm không ngừng nghỉ của những người phụ nữ như chị Triệu Thị Lai và chị Hà Thị Thu Hương, những ngọn măng trong rừng núi Lào Cai không chỉ đơn thuần là kế sinh nhai mà còn góp phần tạo nên cho sự phát triển bền vững cho cộng đồng.

Tại các vùng miền, người tiêu dùng ngày càng ưa chuộng đặc sản vùng cao với tiêu chuẩn an toàn, truy xuất nguồn gốc và giá trị văn hóa đi kèm.

Những sản phẩm măng rừng với vị ngọt thanh, độ giòn đặc trưng và được chế biến theo quy trình sạch của Lào Cai đang dần khẳng định vị thế không chỉ tại các chợ truyền thống, mà có mặt tại các hội chợ, trên quầy kệ của các siêu thị, và trên các nền tảng bán hàng thương mại điện tử.

Tiếp nối hành trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng dân tộc thiểu số và miền núi, cần có chính sách dài hạn từ Nhà nước, từ Bộ Công Thương và các Bộ, ngành, cơ quan, tổ chức trong việc hỗ trợ hạ tầng sản xuất, vốn tín dụng ưu đãi, chuyển giao khoa học công nghệ, xúc tiến thương mại và bảo hộ thương hiệu.

Quan trọng hơn cả là niềm tin vào năng lực của những người phụ nữ vùng cao, trao cho họ cơ hội để góp sức phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

]]>